Tạp chí Vật liệu và Xây dựng - Bộ Xây dựng
https://ojs.jomc.vn/index.php/vn
<div class="description"> <p><strong>Tạp chí Vật liệu và Xây dựng </strong></p> <p>Tạp chí Vật liệu và Xây dựng là tạp chí khoa học của Viện Vật liệu xây dựng (VIBM), tiền thân là Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển Vật liệu xây dựng (ISSN1859-381X), được thành lập ngày 16/02/2011 theo Giấy phép số 175/GP-BTTTT của Bộ Thông tin và Truyền thông với số lượng xuất bản ban đầu là 04 số/năm, ngôn ngữ thể hiện bằng tiếng Việt. Năm 2014, Bộ Thông tin và Truyển thông cho phép Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển VLXD tăng kỳ xuất bản và bổ sung ngôn ngữ tiếng Anh (Journal of Building Materials Research and Development – ISSN1859-381X) theo Giấy phép số 221/GP-BTTTT ngày 17/07/2014.</p> <p>Với mục tiêu phát triển Tạp chí theo hướng mở rộng lĩnh vực, nội dung, tăng cường chất lượng và số lượng, hướng tới hội nhập quốc tế, Tạp chí Nghiên cứu và Phát triển vật liệu xây dựng đã đề nghị và được Bộ Thông tin và Truyền thông cấp Giấy phép (số 564/GP-BTTTT ngày 03/12/2020) đổi tên thành Tạp chí Vật liệu và Xây dựng – Journal of Materials and Construction. Tạp chí Vật liệu và Xây dựng là tạp chí khoa học có phản biện, đăng tải các bài báo khoa học thuộc lĩnh vực vật liệu xây dựng; cơ khí xây dựng; kiến trúc và qui hoạch; kinh tế và quản lý xây dựng; hạ tầng kỹ thuật và môi trường xây dựng,…</p> <p>Website chính thức của Tạp chí bằng tiếng Việt (ISSN1859-381X) và Tạp chí bằng tiếng Anh là (ISSN 2734-9438) tương ứng như sau:</p> <p><a href="https://jomc.vn/">https://jomc.vn/</a></p> <p><a href="https://jomc.vn/en/home/">http://jomc.vn/en</a></p> <p>Để xứng đáng với sự tin cậy của quý bạn đọc và đáp ứng yêu cầu chất lượng cao của Tạp chí, Ban Biên tập Tạp chí rất mong tiếp tục nhận được sự đồng hành, đóng góp nhiệt tình của các nhà khoa học, các chuyên gia, các đối tác trong và ngoài nước bằng cách đóng góp ý kiến, gửi bài đăng trên Tạp chí và đọc phản biện cho các bài báo gửi đến Tạp chí.</p> <p>Xin trân trọng cảm ơn!</p> </div>VIỆN VẬT LIỆU XÂY DỰNGvi-VNTạp chí Vật liệu và Xây dựng - Bộ Xây dựng1859-381XNghiên cứu vai trò của sợi thủy tinh S-glass đến khả năng chịu mài mòn nhiệt độ cao của vật liệu composite trên nền nhựa phenolic biến tính
https://ojs.jomc.vn/index.php/vn/article/view/1165
<p>Hệ thống bảo vệ nhiệt (TPS) trong hàng không – vũ trụ và quốc phòng đặt ra yêu cầu về vật liệu có khả năng chịu mài mòn ở nhiệt độ cao đồng thời duy trì tính toàn vẹn cấu trúc. Trong nghiên cứu này, vật liệu composite nền nhựa phenolic–borat biến tính (PBR) được gia cường bằng sợi thủy tinh S-glass và chế tạo bằng phương pháp ép nóng nhiều giai đoạn với hàm lượng sợi thay đổi từ 65–80% khối lượng. Các tính chất được khảo sát gồm khối lượng riêng, độ rỗng (ASTM D792, ASTM D2734), cơ tính kéo – uốn (ASTM D638, ASTM D790) và khả năng chịu mài mòn nhiệt độ cao theo tiêu chuẩn ASTM E285 sử dụng nguồn nhiệt oxy–axetylen. Kết quả cho thấy khi hàm lượng sợi tăng từ 65–75%, độ bền kéo và độ bền uốn tăng đáng kể, đạt giá trị cực đại tương ứng 356,24 MPa và 784,35 MPa, với mô đun đàn hồi 31,49 GPa. Mẫu chứa 70–75% sợi thể hiện khả năng chịu mài mòn nhiệt tối ưu, thời gian mài mòn 275,6 giây và tốc độ mài mòn thấp nhất 0,0118 mm/giây. Ảnh SEM sau thử nghiệm cho thấy cấu trúc sợi được bảo toàn, đồng thời hình thành lớp cacbon và phụ phẩm bền nhiệt phủ lên bề mặt sợi, góp phần bảo vệ vật liệu. Kết quả khẳng định vật liệu composite PBR/S-glass có khả năng chịu tải mòn nhiệt tốt trong dải hàm lượng sợi 70–75%, phù hợp ứng dụng cho các hệ thống bảo vệ nhiệt TPS hoạt động trong môi trường nhiệt độ cao.</p>Đạt Nguyễn HữuHuynh Mai ĐứcTrung Trần HữuTrang Nguyễn Thị ThuMai Trần ThịMinh Nguyễn TiếnHùng Đỗ VănHải Lương NhưHồng Nguyễn TuấnThao Nguyễn VănGiang Nguyễn Vũ
Bản quyền (c) 2026 Tạp chí Vật liệu và Xây dựng - Bộ Xây dựng
2025-12-192025-12-19160110.54772/jomc.01.2026.1165Hiệu quả gia cường BFRP và ảnh hưởng của tải trọng lặp đến khả năng chịu tải của nút bê tông cốt thép
https://ojs.jomc.vn/index.php/vn/article/view/1090
<p>Bài báo này trình bày kết quả nghiên cứu về hiệu quả gia cường basalt fiber reinforced polymer (BFRP) và ảnh hưởng của tải trọng lặp đến khả năng chịu tải của nút dầm-cột bê tông cốt thép (BTCT) có hệ dầm trực giao. Thí nghiệm được thực hiện trên tám nút dầm-cột. Tám nút dầm-cột này được chia thành bốn nhóm, mỗi nhóm gồm hai nút. Một nhóm không gia cường và ba nhóm còn lại được gia cường bằng sợi BFRP với các cấu hình khác nhau. Trong mỗi nhóm, một nút chịu tác dụng tải trọng đơn và nút còn lại chịu tác dụng của tải trọng lặp. Kết quả cho thấy các nút bị phá hoại ở dạng bê tông vùng nén bị nén vỡ; trong khi đó, bê tông vùng kéo bị nứt. Sự phá hoại tập trung ở vị trí dầm mà không xuất hiện trên cột. Dưới tác dụng của tải đơn, gia cường BFRP đã làm tăng trung bình khoảng 8,5% tải trọng tới hạn của nút. Khi nút chịu tải trọng lặp, gia cường BFRP làm tăng 3,3–7,0% so với nút đối chứng. Tải lặp có ảnh hưởng lớn đến khả năng chịu tải tới hạn của nút. So với nút đối chứng chịu tải đơn, tải lặp đã làm giảm 14,3% tải trọng tới hạn của nút không gia cường và 8,3–17,2% khả năng chịu tải tới hạn của nút gia cường.</p>Võ Bá HuyĐinh Hoài LuânĐoàn Văn ĐẹtCao Văn Vui
Bản quyền (c) 2025 Tạp chí Vật liệu và Xây dựng - Bộ Xây dựng
2025-10-282025-10-28160110.54772/jomc.01.2025.1090Tác động, thách thức và giải pháp của đô thị hóa tới dòng chảy nước mưa đô thị
https://ojs.jomc.vn/index.php/vn/article/view/1188
<p>Các tác động của đô thị hóa và biến đổi khí hậu lên dòng chảy nước mưa, chỉ ra rằng sự gia tăng nhanh bề mặt không thấm, san lấp ao hồ và hạ tầng thoát nước lạc hậu là các nguyên nhân chính làm tăng mạnh dòng chảy đỉnh và nguy cơ ngập úng. Quy trình nghiên cứu dựa trên dữ liệu khí tượng thủy văn, viễn thám, bản đồ sử dụng đất và phân tích hệ thống thoát nước, nhằm xác định cách đô thị hóa làm thay đổi chế độ dòng chảy và các điểm nghẽn trong quản lý nước mưa. Kết quả cho thấy dòng chảy bề mặt trong đô thị có thể tăng gấp 4–5 lần so với điều kiện tự nhiên; đỉnh lũ xuất hiện nhanh hơn; các trận mưa cực đoan giai đoạn 2024–2025 liên tục vượt quá khả năng thiết kế của hệ thống thoát nước, gây ngập sâu ở Hà Nội, TP.HCM, miền Trung và cả các đô thị trung du. Mật độ xây dựng cao, thiếu không gian thấm và quy hoạch thiếu đồng bộ làm gia tăng rủi ro kinh tế – xã hội và suy thoái môi trường. Nghiên cứu đề xuất các giải pháp gồm quy hoạch đô thị tích hợp, nâng cấp hạ tầng thoát nước, mở rộng hạ tầng xanh, tăng cường hệ thống cảnh báo, vận hành thông minh và quản lý cộng đồng nhằm giảm đỉnh dòng chảy, nâng cao khả năng chống chịu và hướng tới phát triển đô thị bền vững.</p>Nguyễn Minh Ngọc
Bản quyền (c) 2026 Tạp chí Vật liệu và Xây dựng - Bộ Xây dựng
2025-12-192025-12-19160110.54772/jomc.01.2026.1188Giải pháp nâng cao hiệu quả kinh tế của việc áp dụng BIM cho các dự án đầu tư ở thành phố Hà Nội
https://ojs.jomc.vn/index.php/vn/article/view/1159
<p>Mô hình thông tin công trình (BIM - Building Information Modeling) đóng vai trò then chốt trong việc nâng cao hiệu quả kinh tế của các dự án đầu tư thông qua việc tích hợp thông tin, tối ưu hóa quy trình và giảm thiểu chi phí – rủi ro trong toàn bộ vòng đời công trình. Việc áp dụng BIM mang lại hiệu quả kinh tế toàn diện cho các dự án đầu tư, giúp tiết kiệm chi phí, rút ngắn tiến độ, nâng cao chất lượng và hiệu quả sử dụng vốn đầu tư công. Nghiên cứu các giải pháp nâng cao hiệu quả kinh tế của việc áp dụng BIM cho các dự án đầu tư ở thành phố Hà Nội là cấp thiết và có ý nghĩa thực tiễn cao.</p>Lê Minh ThoaLâm Hải HòaNguyễn Thanh HuyềnNguyễn Thanh Tuyền
Bản quyền (c) 2026 Tạp chí Vật liệu và Xây dựng - Bộ Xây dựng
2025-12-192025-12-19160110.54772/jomc.01.2026.1159Đánh giá khả năng sử dụng nguồn vật liệu san lấp tại vùng kinh tế trọng điểm phía Nam để thi công nền đường vùng trũng ven sông
https://ojs.jomc.vn/index.php/vn/article/view/1182
<p>Quá trình sáp nhập địa giới hành chính các tỉnh phía Nam và định hướng phát triển hạ tầng quy mô lớn đã tạo nhu cầu cấp thiết về vật liệu san lấp, đặc biệt là cho nền đường tại vùng trũng ven sông ở vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Trong bối cảnh nguồn vật liệu truyền thống suy giảm, cấp phối đá dăm 0÷4,0 cm từ đá vôi ở các vùng đồi núi giáp Campuchia trở thành một giải pháp thay thế tiềm năng nhờ đặc tính cơ lý phù hợp và khả năng khai thác thuận lợi. Nghiên cứu đánh giá khả năng sử dụng vật liệu này kết hợp 10÷20% tro bay nhiệt điện Duyên Hải 1 nhằm cải thiện độ bền, khả năng chống thấm và giảm lún nén. Kết quả nghiên cứu cho thấy vật liệu phối trộn đáp ứng các yêu cầu kỹ thuật đề ra, góp phần giảm chi phí, tận dụng phế thải công nghiệp và phù hợp với định hướng kinh tế tuần hoàn. Đồng thời, nghiên cứu nhấn mạnh tầm quan trọng của quản lý khai thác bền vững và việc ban hành tiêu chuẩn kỹ thuật riêng cho vật liệu địa phương, góp phần phát triển hạ tầng xanh, bền vững cho vùng kinh tế trọng điểm phía Nam.</p>Lê Anh TuấnNguyễn Vĩnh Bảo
Bản quyền (c) 2026 Tạp chí Vật liệu và Xây dựng - Bộ Xây dựng
2025-12-082025-12-08160110.54772/jomc.01.2026.1182Nghiên cứu một số tính chất cơ học của bê tông hạt mịn có sử dụng mảnh PET phế thải dưới tác động của nhiệt độ
https://ojs.jomc.vn/index.php/vn/article/view/1154
<p>Nghiên cứu này được thực hiện nhằm xác định ảnh hưởng của nền nhiệt độ cao tới một số tính chất cơ học của bê tông hạt mịn có sử dụng mảnh PET phế thải (CWRP). Các cấp phối bê tông hạt mịn với sự thay thế 10, 15 và 20% mảnh PET băm theo thể tích sẽ được nghiên cứu khả năng chịu nhiệt. Để thực hiện nghiên cứu này, các mẫu dầm lăng trụ và mẫu lập phương đã được đúc để xác định cường độ chịu kéo khi uốn và nén của CWRP trước và sau khi chịu nhiệt đồng thời tinh công tác của hỗn hợp của được xác định. Kết quả nghiên cứu chỉ ra khi hàm lượng PET thay thế tăng lên thì tính công tac của hỗn hợp có xu hướng giảm. Việc tăng hàm lượng PET thay thế làm suy giảm cường độ chịu kéo khi uốn và nén của CWRP ở nhiệt độ phòng thí nghiệm. Dưới nền nhiệt độ cao nghiên cứu cho thấy khi hàm lượng mảnh PET tăng thì tính nhạy cảm nhiệt của CWRP tăng. Thông qua khảo sát hàm lượt PET thay thế khoảng 10 % là phù hợp đảm bảo tinh công tác và các đặc trưng cơ lý của CWRP trong điều kiện nhiệt độ môi trường.</p>Nguyễn Đình Hải
Bản quyền (c) 2026 Tạp chí Vật liệu và Xây dựng - Bộ Xây dựng
2025-12-152025-12-15160110.54772/jomc.01.2026.1154Xây dựng định mức dự toán đường sắt đô thị Việt Nam: Cơ sở lý luận và thực tiễn
https://ojs.jomc.vn/index.php/vn/article/view/1180
<p>Hiện nay, quá trình đô thị hóa với tốc độ cao đang tạo ra những thách thức lớn cho hệ thống giao thông đô thị tại Việt Nam như tắc nghẽn, ô nhiễm và tai nạn gia tăng. Do đó, phát triển đường sắt đô thị được Nhà nước coi là giải pháp cấp thiết với kế hoạch đến năm 2035 Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh có mạng lưới 580km, đáp ứng 30-35% nhu cầu vận chuyển hành khách công cộng. Tuy nhiên, Việt Nam hiện chưa có hệ thống định mức dự toán riêng cho đường sắt đô thị nên các dự án phải vận dụng định mức của nước ngoài hoặc của các lĩnh vực khác, gây khó khăn trong quản lý chi phí. Cụ thể, tuyến Cát Linh - Hà Đông sử dụng định mức Trung Quốc, tuyến metro số 1 Thành phố Hồ Chí Minh dựa trên suất đầu tư khu vực châu Á, tuyến metro số 2 Thành phố Hồ Chí Minh phải tự xây dựng định mức đặc thù. Qua nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế cho thấy các nước phát triển như Nhật Bản, Trung Quốc, … đều có hệ thống định mức riêng cho đường sắt đô thị, trong khi Việt Nam chỉ có định mức chung cho tất cả ngành và một số định mức chuyên ngành nhưng chưa có định mức cho đường sắt đô thị. Căn cứ vào kết quả nghiên cứu, bài báo chỉ ra vai trò quan trọng của việc xây dựng hệ thống định mức để đảm bảo quản lý chi phí hiệu quả, minh bạch và phù hợp với đặc thù kỹ thuật phức tạp của đường sắt đô thị. Từ đó, bài báo đề xuất bốn giải pháp chính: (1) Xây dựng hệ thống định mức đặc thù cho đường sắt đô thị phù hợp điều kiện Việt Nam; (2) Học hỏi có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế và điều chỉnh theo thực tiễn trong nước; (3) Thể chế hóa khung pháp lý riêng cho định mức dự toán hạ tầng đô thị; (4) Từng bước xây dựng mô hình định mức ứng dụng công nghệ số như BIM, AI và Big Data.</p>Bùi Thị Ngọc Lan
Bản quyền (c) 2026 Tạp chí Vật liệu và Xây dựng - Bộ Xây dựng
2025-12-192025-12-19160110.54772/jomc.01.2026.1180Công tác tiêu chuẩn hóa nhóm vật liệu liên kết thủy lực – kết quả và định hướng của Viện Vật liệu xây dựng
https://ojs.jomc.vn/index.php/vn/article/view/1132
<p>Bài báo trình bày tổng quan về công tác tiêu chuẩn hóa trong lĩnh vực vật liệu xây dựng do Viện Vật liệu xây dựng (VIBM) chủ trì biên soạn trong giai đoạn gần đây. Nội dung tập trung vào nhóm vật liệu liên kết thủy lực, bao gồm các tiêu chuẩn về xi măng xây trát, xi măng poóc lăng đa cấu tử, phụ gia đá vôi mịn, xỉ lò cao nghiền mịn, tro bay và hỗn hợp liên kết thủy lực. Việc xây dựng và ban hành các tiêu chuẩn này đã góp phần hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn quốc gia TCVN theo hướng hài hòa với tiêu chuẩn châu Âu (EN), đồng thời đáp ứng yêu cầu đổi mới công nghệ, nâng cao hiệu quả sử dụng tài nguyên, tiết kiệm năng lượng và giảm phát thải CO₂. Kết quả này cũng là cơ sở quan trọng hướng tới phát triển vật liệu xây dựng xanh và bền vững ở Việt Nam.</p>Vũ Văn LinhNguyễn Văn HoanTạ Văn LuânDương Thanh QuiPhan Văn QuỳnhPhạm Hữu ThiênNguyễn Thanh Bình
Bản quyền (c) 2026 Tạp chí Vật liệu và Xây dựng - Bộ Xây dựng
2025-10-282025-10-28160110.54772/jomc.01.2026.1132Dự báo chiều dài nước nhảy, ứng suất đáy và tổn thất năng lượng bằng mô hình học máy cho nước nhảy ổn định, tự do trên nền nhám
https://ojs.jomc.vn/index.php/vn/article/view/1168
<p>Việc xác định hoặc dự đoán các đặc điểm của nước nhảy trên các nền nhám vẫn là một vấn đề phức tạp trong lĩnh vực kỹ thuật thủy lực. Mặc dù, các nghiên cứu mô phỏng số và thực nghiệm gần đây đã nâng cao hiểu biết về hiện tượng này, nhưng vẫn cần một phương pháp dự đoán hiệu quả và chính xác để thiết kế tối ưu các bể tiêu năng trong điều kiện dòng chảy lũ phức tạp. Nghiên cứu này đề xuất một phương pháp tiên tiến để dự đoán các thông số thủy lực chính của nước nhảy tự do và ổn định trên các nền nhám hình lăng trụ tam giác vuông, bao gồm chiều dài nước nhảy (<em>L<sub>j</sub></em>/<em>y</em>₁), ứng suất đáy (<em>e</em>) và tổn thất năng lượng (Δ<em>E<sub>L</sub></em>/<em>E</em>₁). Các kỹ thuật học máy, cụ thể là Hồi quy cây quyết định (Fine Tree) và Hồi quy vectơ hỗ trợ (SVR), đã được áp dụng để mô hình hóa các mối quan hệ phi tuyến tính giữa hình dạng nền thô và hành vi dòng chảy xiết đầu kênh. Kết quả nghiên cứu cho thấy các mô hình đạt được độ chính xác dự đoán cao (<em>R</em>² = 0,91 ¸ 0,99) với giá trị lỗi <em>RMSE</em> thấp, khẳng định khả năng mạnh mẽ của mô hình trong việc dự đoán các hiện tượng thủy lực phức tạp. Những phát hiện này chứng minh rằng trí tuệ nhân tạo (AI) có thể đóng vai trò là giải pháp thay thế đáng tin cậy và tiết kiệm chi phí cho các thí nghiệm mô hình vật lý và mô phỏng số, cung cấp cơ sở khoa học vững chắc để phân tích và tối ưu hóa hiệu suất thủy lực và hiệu quả tiêu tán năng lượng của nước nhảy trên nền nhám trong điều kiện thủy lực phức tạp.</p> <div style="all: initial !important;"> </div> <div style="all: initial !important;"> </div>Trịnh Công Tý
Bản quyền (c) 2026 Tạp chí Vật liệu và Xây dựng - Bộ Xây dựng
2025-12-192025-12-19160110.54772/jomc.01.2026.1168Giới thiệu tiêu chuẩn sơn và vecni - xác định độ bám dính
https://ojs.jomc.vn/index.php/vn/article/view/1101
<p>Tiêu chuẩn quy định phương pháp để xác định độ bám dính của “sơn, vecni hoặc sản phẩm liên quan” và được chuyển dịch chấp nhận (tương đương) theo tiêu chuẩn . Trong tiêu chuẩn này, đưa ra 03 phương pháp xác định bộ bám dính bằng cách thực hiện phép kéo nhổ trên một lớp phủ hoặc hệ nhiều lớp phủ.</p>Đàm Thị Mỹ Lương
Bản quyền (c) 2026 Tạp chí Vật liệu và Xây dựng - Bộ Xây dựng
2025-10-282025-10-28160110.54772/jomc.01.2026.1101Nghiên cứu rủi ro trong công tác sử dụng vật liệu khi thi công các dự án hạ tầng giao thông lớn tại Việt Nam
https://ojs.jomc.vn/index.php/vn/article/view/1197
<p>Báo cáo này phân tích các nhóm rủi ro trọng yếu trong công tác huy động và sử dụng vật liệu khi triển khai các dự án hạ tầng giao thông quy mô lớn tại Việt Nam. Nhu cầu khối lượng vật liệu tăng nhanh trong bối cảnh nhiều tuyến cao tốc, đường ven biển và công trình trọng điểm được đồng thời triển khai đã làm gia tăng nguy cơ thiếu hụt nguồn cung, nhất là đối với đất đắp, cát xây dựng và đá các loại. Bên cạnh việc phụ thuộc vào các mỏ truyền thống, tiến độ cấp phép mới chậm và sự cạnh tranh giữa các dự án cũng khiến chuỗi cung ứng dễ bị gián đoạn. Chất lượng vật liệu không đồng đều, khai thác nhỏ lẻ và thiếu kiểm soát càng làm tăng nguy cơ phải xử lý kỹ thuật bổ sung, phát sinh chi phí và ảnh hưởng tiến độ. Hệ thống logistics cũng đối mặt nhiều áp lực khi vật liệu phải vận chuyển từ khoảng cách xa; hạ tầng hiện hữu tại công trường thường hẹp, yếu hoặc trộn lẫn giao thông dân sinh dẫn đến ùn tắc, kéo dài thời gian cung ứng và giảm hiệu quả điều phối phương tiện. Song song đó, khai thác vật liệu quy mô lớn còn gây rủi ro môi trường-xã hội, tác động đến canh tác nông nghiệp, bờ bãi ven biển, dòng chảy và hệ sinh thái nội địa. Cuối cùng, bất cập trong quy hoạch mỏ, thiếu liên thông dữ liệu cung-cầu và cơ chế điều phối vùng làm gia tăng tính bất định của thị trường. Việc nhận diện sớm và quản trị các rủi ro này là cơ sở để tối ưu hóa nguồn lực, đảm bảo tiến độ và nâng cao tính bền vững cho các dự án giao thông trọng điểm quốc gia.</p>Lê Khánh Linh
Bản quyền (c) 2026 Tạp chí Vật liệu và Xây dựng - Bộ Xây dựng
2025-12-192025-12-19160110.54772/jomc.01.2026.1197Xác định giá trị đặc trưng của thông số đất trong các tiêu chuẩn tính toán nền móng ở Việt Nam
https://ojs.jomc.vn/index.php/vn/article/view/1162
<p>Việt Nam hiện đang trong quá trình hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn quốc gia (TCVN) cho ngành xây dựng, trong đó nhiều tiêu chuẩn được chuyển đổi và tham khảo từ các tiêu chuẩn quốc tế. Tuy nhiên, giữa các tiêu chuẩn hiện hành vẫn tồn tại sự khác biệt đáng kể về phương pháp tính toán, đặc biệt là trong việc xác định và sử dụng giá trị đặc trưng của các thông số đất trong thiết kế nền móng. Nghiên cứu này tổng hợp, phân tích và so sánh các quy định liên quan trong các tiêu chuẩn TCVN hiện hành, đồng thời đối chiếu với các tiêu chuẩn quốc tế có liên quan. Kết quả cho thấy các tiêu chuẩn TCVN chưa thống nhất về phương pháp xác định giá trị đặc trưng và hệ số tin cậy trong tính toán địa kỹ thuật. Mặc dù TCVN 9362-2012 và TCVN 10304-2025 đều có quy định về giá trị đặc trưng, cách tiếp cận của chúng dẫn đến sự khác biệt trong kết quả tính toán, làm ảnh hưởng đến độ tin cậy và tính nhất quán của thiết kế. Các kết quả nghiên cứu góp phần làm rõ bản chất của các phương pháp tính toán được sử dụng trong các tiêu chuẩn, đồng thời khẳng định nhu cầu cấp thiết phải hệ thống hóa và thống nhất các tiêu chuẩn TCVN về địa kỹ thuật. Việc xây dựng các tiêu chuẩn rõ ràng, dễ hiểu và có tính thống nhất cao sẽ giúp nâng cao hiệu quả thiết kế, quản lý và áp dụng trong thực tiễn xây dựng tại Việt Nam.</p>Phạm Thế Anh
Bản quyền (c) 2026 Tạp chí Vật liệu và Xây dựng - Bộ Xây dựng
2025-12-192025-12-19160110.54772/jomc.01.2026.1162Nghiên cứu tạo gạch alumosilicat từ đất sét Chí Linh, thành phố Hải Phòng bằng phương pháp không nung
https://ojs.jomc.vn/index.php/vn/article/view/1027
<p>Gạch không nung alumosilicat được làm từ cao lanh, đất sét và Samot. Ảnh hưởng của thành phần, kích thước hạt đất sét đến cường độ của gạch được nghiên cứu. Cường độ của gạch được kiểm tra bằng máy E156 của hãng Matest. Cấu trúc của gạch được kiểm tra bằng phổ hồng ngoại (IR), phương pháp phổ nhiễu xạ tia x(XRD). Kết quả chỉ ra rằng vật liệu chứa 85 % Samốt, 2 % cao lanh, 13 % đất sét có cường độ cao nhất. Vật liệu có cường độ cao nhất khi kích thước hạt đất sét ≤ 0,15 mm.</p>Hà Mạnh ChiếnLê Quang Huy
Bản quyền (c) 2026 Tạp chí Vật liệu và Xây dựng - Bộ Xây dựng
2025-12-192025-12-19160110.54772/jomc.01.2026.1027Nghiên cứu chế tạo bê tông cường độ cao chống thấm nước dùng trong xây dựng phần ngầm nhà cao tầng khu vực thành phố Hồ Chí Minh
https://ojs.jomc.vn/index.php/vn/article/view/1184
<p>Bài báo trình bày kết quả nghiên cứu chế tạo bê tông cường độ cao không thấm nước với mục tiêu cải thiện khả năng chịu nén, chống nứt và chống thấm nước phục vụ xây dựng các công trình ngầm, tầng hầm, nhiều tầng nhất là các công trình ngầm tại khu vực TP. Hồ Chí Minh. Năm cấp phối bê tông được thiết kế theo ACI 211.4R-08 với sự kết hợp giữa xi măng Portland hỗn hợp PCB40, tro bay nhiệt điện Duyên Hải, silica fume SF-90 và sợi polypropylene phân tán. Các tính chất công tác, cơ lý và chống thấm của bê tông được xác định theo tiêu chuẩn Việt Nam hiện hành. Kết quả thí nghiệm cho thấy bê tông đạt cường độ nén trung bình ở tuổi 28 ngày từ 63,5 MPa đến 73,6 MPa, cường độ kéo uốn từ 7,40 đến 8,02 MPa, mô đun đàn hồi trung bình trên 37,4 GPa. Độ hút nước dưới 8%, khả năng chống thấm đạt W12-W19 theo TCVN 3116:2022. Hỗn hợp bê tông có tính công tác tốt với độ sụt từ 19,0-22,0 cm, ổn định theo thời gian và không phân tầng, phù hợp cho điều kiện thi công tại công trường. Từ kết quả thu được trong nghiên cứu này có thể khẳng định, bê tông cường độ cao, chống thấm nước tốt là giải pháp bền vững và hiệu quả cho xây dựng hạ tầng phần ngầm tại TP. Hồ Chí Minh, đồng thời góp phần giảm sử dụng xi măng, tận dụng phế thải công nghiệp và hướng tới vật liệu xây dựng thân thiện môi trường.</p>Võ Quốc BảoNguyễn Vĩnh BảoNguyễn Chí Nhân
Bản quyền (c) 2026 Tạp chí Vật liệu và Xây dựng - Bộ Xây dựng
2025-12-082025-12-08160110.54772/jomc.01.2026.1184Nghiên cứu cường độ chịu nén của vữa và bê tông sử dụng cốt liệu vỏ hàu thay thế cát sông
https://ojs.jomc.vn/index.php/vn/article/view/1155
<p>Nghiên cứu này đánh giá ảnh hưởng của việc sử dụng cốt liệu vỏ hàu nghiền thay thế một phần cát sông đến cường độ chịu nén của vữa và bê tông. Các mẫu vữa có tỷ lệ thay thế cát sông gồm 0%, 5%, 10%, 15%; mẫu bê tông chọn tỷ lệ tối ưu 15%. Kết quả cho thấy, đối với vữa, cường độ nén ở 28 ngày cao nhất tại tỷ lệ thay thế 15%. Đối với bê tông, mặc dù độ sụt giảm (~37,5%), nhưng cường độ nén ở 28 ngày vẫn tương đương với mẫu đối chứng. Sự ổn định về cường độ được xác định nhờ bề mặt nhám của vỏ hàu và thành phần CaCO₃ tham gia phản ứng hóa học. Nghiên cứu mở ra tiềm năng ứng dụng phế thải vỏ hàu trong sản xuất vật liệu xây dựng bền vững tại Việt Nam.</p>Lê Hoài BãoNgô Văn ThứcVõ Trung Kiên
Bản quyền (c) 2025 Tạp chí Vật liệu và Xây dựng - Bộ Xây dựng
2025-10-312025-10-31160110.54772/jomc.01.2026.1155Giải pháp huy động vốn đầu tư bền vững cho hệ thống đê biển Việt Nam thích ứng với biến đổi khí hậu
https://ojs.jomc.vn/index.php/vn/article/view/1181
<p>Trước bối cảnh biến đổi khí hậu ngày càng gia tăng, Việt Nam có khoảng 2/3 chiều dài hệ thống đê biển không đảm bảo tiêu chuẩn an toàn để bảo vệ dân cư và hạ tầng khu vực ven biển. Trong khi đó, vốn ngân sách nhà nước không đủ đáp ứng nhu cầu đầu tư cho hệ thống đê biển nên việc huy động các nguồn vốn đầu tư bền vững cho xây dựng, nâng cấp và bảo trì hệ thống này là rất cấp thiết. Bài báo tham khảo kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới, đồng thời nghiên cứu cơ sở pháp lý và tình hình thực tiễn tại Việt Nam nhằm đề xuất một số giải pháp huy động vốn đầu tư bền vững cho hệ thống đê biển thích ứng với biến đổi khí hậu. Các giải pháp cụ thể như sau: (i) Tối ưu hóa và đa dạng hóa nguồn vốn đầu tư công; (ii) Thu hút và huy động nguồn vốn tư nhân; (iii) Tối đa hóa nguồn vốn quốc tế và hợp tác đa phương; (iv) Phát triển cơ chế tài chính sáng tạo và quản lý rủi ro; (v) Tăng cường năng lực thể chế và quản trị tài chính; và (vi) Tích hợp các giải pháp dựa vào thiên nhiên và phát triển bền vững. Thực hiện thành công các giải pháp này góp phần huy động nguồn vốn đầu tư đa dạng, minh bạch và bền vững nhằm nâng cao khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu cho các khu vực ven biển Việt Nam.</p>Bùi Thị Ngọc Lan
Bản quyền (c) 2026 Tạp chí Vật liệu và Xây dựng - Bộ Xây dựng
2025-12-192025-12-19160110.54772/jomc.01.2026.1181Ảnh hưởng của hàm lượng tro bay đến độ chống thấm nước và độ co ngót của bê tông
https://ojs.jomc.vn/index.php/vn/article/view/1137
<p>Bài báo này nhằm mục đích đánh giá ảnh hưởng của hàm lượng tro bay (FA) đến cường độ và độ bền của bê tông xi măng. Trong nghiên cứu thực nghiệm này, các tính chất được kiểm tra là cường độ chịu nén (CĐCN), độ chống thấm nước và độ co ngót của bê tông. Với mục đích này, một hỗn hợp bê tông FA loại F đã được thiết kế với năm mức FA thay thế xi măng PCB40 (0%, 20%, 25, 30% và 35%). Kết quả thử nghiệm cho thấy, ở 28 ngày tuổi CĐCN của các bê tông FA 20 - 35% đều giảm so với mẫu đối chứng 0%, bê tông có liều lượng FA 20% - 30% có độ chống thấm cao hơn mẫu đối chứng, nhưng tăng lên 35% thì độ chống thấm bắt đầu giảm so với mẫu đối chứng. Ở 56 ngày tuổi, mẫu FA 20% có CĐCN cao hơn mẫu đối chứng khoảng 1,5%, các hỗn hợp còn lại đều giảm nhẹ so với mẫu đối chứng lần lượt là -1,1%, -3,3% và -6%, nhưng tất cả các hỗn hợp bê tông FA đều có khả năng chống thấm tốt hơn mẫu đối chứng. Về độ co ngót, qua kết quả thí nghiệm cho thấy ở 28 và 56 ngày tuổi, bê tông hàm lượng FA tăng thì độ co ngót càng giảm so với mẫu đối chứng và giảm gần như tuyến tính.</p>Lê Châu TuấnVõ Bá HuyĐinh Hoài Luân
Bản quyền (c) 2026 Tạp chí Vật liệu và Xây dựng - Bộ Xây dựng
2025-12-192025-12-19160110.54772/jomc.01.2026.1137Đánh giá ảnh hưởng của bột vỏ hàu đến một số đặc tính cơ học của bê tông xi măng
https://ojs.jomc.vn/index.php/vn/article/view/1175
<p>Nghiên cứu này đánh giá ảnh hưởng của việc thay thế một phần xi măng bằng bột vỏ hàu nghiền mịn đến tính chất cơ học của bê tông. Vỏ hàu được xử lý qua các bước làm sạch, phơi khô, nghiền, nung và sàng mịn. Thí nghiệm được thực hiện với các tỷ lệ thay thế là 2%, 4% và 6% theo khối lượng xi măng. Kết quả cho thấy tỷ lệ 2% là tối ưu, giúp cải thiện cường độ nén sớm, tăng cường độ chịu kéo khi uốn lên đến 58% so với mẫu đối chứng, trong khi mô đun đàn hồi gần như không thay đổi. Kết quả cho thấy bột vỏ hàu có tiềm năng ứng dụng làm phụ gia khoáng thay thế xi măng, góp phần giảm phát thải và tái sử dụng chất thải trong xây dựng bền vững.</p>Nguyễn Lê TàiLê Hoài BãoNgô Văn Thức
Bản quyền (c) 2026 Tạp chí Vật liệu và Xây dựng - Bộ Xây dựng
2025-12-192025-12-19160110.54772/jomc.01.2026.1175Giới thiệu một số dự thảo tiêu chuẩn lĩnh vực kính xây dựng năm 2025
https://ojs.jomc.vn/index.php/vn/article/view/1119
<p>Trong những năm qua công tác xây dựng tiêu chuẩn mới và soát xét tiêu chuẩn hiện hành lĩnh vực vật liệu kính xây dựng luôn được thực hiện kịp thời nhằm cập nhật bổ sung những thay đổi về tiêu chuẩn chất lượng sản phẩm, tạo tương đồng trong sản xuất và ứng dụng nhằm bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, giúp doanh nghiệp và nhà nước quản lý sản phẩm trên thị trường. Chính vì vậy, Bộ Xây dựng đã giao Viện Vật liệu xây dựng thực hiện các nhiệm vụ xây dựng tiêu chuẩn trong giai đoạn 2024-2025 bao gồm : Kính xây dựng - Sản phẩm cơ bản đặc biệt. Gốm thủy tinh. Đánh giá phù hợp - Tiêu chuẩn sản phẩm, mã số TC 82-24; Kính xây dựng - Lắp kính và cách âm trong không khí - Đo trở kháng cơ học của kính dán, mã số TC 83-24; Kính xây dựng - Giá trị cân bằng năng lượng - Phương pháp tính, mã số TC 84-24; Chất trám liên kết. Chất trám liên kết chịu ánh sáng mặt trời trực tiếp sử dụng trong lắp kính, mã số TC 85-24; Kính xây dựng - Xác định độ phát xạ, mã số TC 95-24 và Kính xây dựng - An toàn cháy, khả năng chịu lửa - Phương pháp thử để phân loại, mã số TC 96-24. Các tiêu chuẩn này khi ban hành mang lại lợi ích tích cực như đảm bảo chất lượng sản phẩm, tăng cường an toàn, thúc đẩy đổi mới nâng cao chất lượng và tạo thuận lợi cho thương mại và hội nhập quốc tế.</p>Mai Trọng NguyênNguyễn Văn MinhĐào Anh TuấnKiều Lê HảiNguyễn Thị Thu HằngNguyễn Thị Lệ Quyên
Bản quyền (c) 2026 Tạp chí Vật liệu và Xây dựng - Bộ Xây dựng
2025-10-282025-10-28160110.54772/jomc.01.2026.1119Nghiên cứu thu hút đầu tư hạ tầng giao thông vào vùng đất nhiễm mặn dọc sông Tiền làm cơ sở phát triển du lịch và nông nghiệp
https://ojs.jomc.vn/index.php/vn/article/view/1200
<p>Vùng đất nhiễm mặn dọc sông Tiền của tỉnh Tiền Giang có nhiều tiềm năng phát triển nông nghiệp, thủy sản và du lịch sinh thái, song hạ tầng giao thông còn hạn chế do địa hình bị chia cắt và tác động ngày càng gia tăng của xâm nhập mặn. Thực trạng này ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng thu hút đầu tư và việc hình thành chuỗi giá trị nông nghiệp – du lịch tại khu vực ven sông Tiền. Nghiên cứu tập trung phân tích vai trò của hạ tầng giao thông trong kết nối không gian phát triển, hỗ trợ chuyển đổi sinh kế và nâng cao hiệu quả khai thác tiềm năng của vùng nhiễm mặn. Trên cơ sở đánh giá các khó khăn và yêu cầu phát triển bền vững, nghiên cứu đề xuất các giải pháp thu hút đầu tư theo hướng áp dụng mô hình hợp tác công – tư, lồng ghép dự án giao thông với các lĩnh vực có doanh thu bổ trợ và tăng cường cơ chế hỗ trợ phù hợp với điều kiện môi trường đặc thù. Kết quả nghiên cứu góp phần định hướng phát triển hạ tầng giao thông gắn với chuỗi giá trị nông nghiệp – du lịch tại vùng ven sông Tiền.</p>Lê Phi Vũ Nguyễn Chí Nhân
Bản quyền (c) 2026 Tạp chí Vật liệu và Xây dựng - Bộ Xây dựng
2025-12-192025-12-19160110.54772/jomc.01.2026.1200